Quỹ đầu tư và CTQLQ trong việc chuyển đổi các tổng Cty NN
Để thực hiện việc đầu tư - kinh
doanh chứng khoán trên thị trường tài chính, đòi hỏi công chúng và các nhà đầu
tư không chỉ có kiến thức về chứng khoán
và thị trường chứng khoán (TTCK) mà còn phải thường xuyên quan tâm, theo dõi,
bám sát thực trạng, phân tích xu hướng phát triển của thị trường vốn. Để làm
được điều này đòi hỏi các nhà đầu tư phải tiến hành khảo sát thực tiễn, thu
thập thông tin, tài liệu để tiến hành phân tích từng chứng khoán cụ thể, lập và
quản lý danh mục đầu tư… nhằm hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Chung cư xa la
Với lĩnh vực nghiệp vụ, chuyên
môn đặc biệt này, chỉ những chuyên gia và các nhà đầu tư chuyên nghiệp mới có
thể thực hiện được. Vì vậy, mâu thuẫn giữa nhu cầu đầu tư với khả năng hạn chế
về tri thức, thông tin và công nghệ đã được giải quyết bởi quá trình hợp tác và
phân công lao động xã hội trong hoạt động đầu tư - kinh doanh chứng khoán. Từ
nhu cầu thực tiễn đã dẫn đến sự hình thành từng bước những mối quan hệ kinh tế
tất yếu trên cơ sở của sự phân công và phối hợp những quan hệ về sở hữu vốn,
quản trị và điều hành việc sử dụng vốn đầu tư một cách có tổ chức... Cùng với
nó, những người chủ sở hữu vốn đầu tư thành lập những tổ chức tài chính dưới mô
hình như: “quỹ đầu tư”, “công ty đầu tư”,
“công ty quản lý quỹ đầu tư”... Chung cư 28 tầng làng quốc tế Thăng Long
Quỹ đầu tư (QĐT) và công ty quản
lý quỹ đầu tư (CtyQLQ) ra đời xuất phát từ nhu cầu nội tại của thị trường tài
chính và khi TTCK đã phát triển ở mức độ nhất định. Thực tiễn đã chứng minh
rằng, mặc dù TTCK đã xuất hiện từ giữa thế kỷ XV nhưng các QĐT, CtyQLQ mới chỉ bắt đầu xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX
và phát triển mạnh mẽ từ giữa thế kỷ XX đến nay. Cho thuê chung cư Indochina Plaza
QĐT và CtyQLQ thường được hình
thành một cách tuần tự, từ đơn giản đến phức tạp, quy mô từ nhỏ đến lớn và mô
hình tổ chức - quản lý ngày càng hoàn thiện, phạm vi hoạt động từ quốc gia đến
quốc tế. Lịch sử phát triển của các QĐT, CtyQLQ cho thấy, mô hình khởi điểm là
các QĐT tập thể, chưa phải là pháp nhân, sau đó là thời kỳ phát triển của các
QĐT dưới dạng công ty theo mô hình “đóng” rồi mới xuất hiện và phát triển dưới
mô hình “mở”. Bán chung cư Ct3 trung văn
Từ thực tiễn, sự phát triển không
ngừng của các QĐT và CtyQLQ trên thị trường tài chính là một trong những kết
quả trực tiếp của sự phát triển của phân công lao động xã hội trong lĩnh vực
tài chính. Bán chung cư 165 Thái Hà
Các QĐT và CtyQLQ đầu tư có những nhiệm vụ chủ yếu như sau:
Huy động vốn đầu tư;
Quản lý và thực hiện quá trình
đầu tư trên cơ sở các nguồn vốn đã huy động được;
Lưu ký, bảo quản tài sản và tổ
chức giám sát các hoạt động đầu tư;
Để thực hiện những nhiệm vụ này,
QĐT và CtyQLQ đầu tư phải giải quyết tốt những mối quan hệ trên TTCK, thị trường
tiền tệ. Trong đó, có những mối quan hệ với các ngân hàng, công ty tài chính…
với tư cách là tổ chức bảo lãnh phát hành, lưu ký, bảo quản tài sản, giám sát
hoạt động của các CtyQLQ đầu tư hoặc thực hiện các hợp đồng ủy thác huy động
vốn, quản lý danh mục đầu tư cho các QĐT.
Những nội dung cơ bản của hoạt động đầu tư:
Hoạt động đầu tư là nhiệm vụ quan
trọng nhất, giữ vai trò quyết định đến sự thành công hay thất bại đối với mọi
QĐT, CtyQLQ đầu tư. Vì vậy, để tiến hành đầu tư, các QĐT, CtyQLQ đầu tư phải tổ
chức thực hiện nghiêm túc quy trình hoạt động đầu tư (theo Sơ đồ a)
Để nghiên cứu đầu tư, các QĐT và
CtyQLQ đầu tư sử dụng công cụ phân tích cơ bản, nhằm tập trung giải quyết những
vấn đề vĩ mô như: phân tích sự tác động của lãi suất, tỷ giá, chính sách kinh
tế - xã hội, các quan hệ kinh tế quốc tế… tác động tới hoạt động đầu tư - kinh
doanh chứng khoán; phát hiện, dự đoán khuynh hướng phát triển và những biến
động có thể sảy ra đối với toàn bộ nền kinh tế - đặc biệt là đối với thị trường
tài chính và triển vọng phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể. Đồng
thời, để tính toán khả năng sinh lời, triển vọng tăng trưởng, phân tích rủi ro
đối với từng loại chứng khoán cụ thể; QĐT, CtyQLQ đầu tư sử dụng công cụ phân
tích kỹ thuật để thực hiện điều này.
Mục tiêu đầu tư được xác định và
thiết lập trên cơ sở những kết quả nghiên cứu thị trường và phân tích lợi
nhuận, rủi ro theo quy trình như sơ đồ 3. Đồng thời, phải xuất phát từ khả năng
tài chính, khả năng tham gia của các nhà đầu tư, những đặc điểm và mục tiêu
thành lập quỹ... Trên cơ sở đó, phải xác định mục tiêu đầu tư là thu nhập, lãi
vốn hay kết hợp cả hai mục tiêu này để bảo tồn và phát triển quỹ một cách hiệu
quả nhất.
Mục tiêu đầu tư được thực hiện
thông qua các chiến lược đầu tư. Nghĩa là, chiến lược đầu tư phải được thành
lập trên cơ sở mục tiêu đầu tư. Căn cứ vào mục tiêu đầu tư chủ động xây dựng
chiến lược đầu tư để xác định cơ cấu tài sản (phân bố tài sản) và lựa chọn
chứng khoán theo hướng năng động hoặc theo cơ cấu ổn định. Từ đó hình thành
chiến lược đầu tư mang tính chủ động hay thụ động hoặc sử dụng chiến lược hỗn
hợp cả hai thuộc tính này để hình thành danh mục đầu tư.
Chiến lược đầu tư mang tính chủ
động: áp dụng chiến lược này, danh mục đầu tư thường tập trung vào các công cụ
tài chính mang tính mạo hiểm, mức độ rủi ro cao như đối với việc đầu tư - kinh
doanh cổ phiếu, các công cụ tài chính phái sinh và liên quan nhiều đến yếu tố
tạo lập thị trường.
Với việc áp dụng chiến lược này,
các nhà hoạch định kỳ vọng vào sự tăng trưởng về giá trị tương lai hoặc vào sự
phát triển đột biến để lựa chọn ngành, lĩnh vực và các chứng khoán cụ thể. Điều
này đòi hỏi phải sử dụng thuần thục cả hai loại công cụ phân tích nêu trên để
có thể phát huy tính chủ động, không ngừng chuyển hóa cơ cấu tài sản và đổi mới
chứng khoán.
Ngược lại, chiến lược đầu tư mang
tính thụ động thường dàn trải tài sản và đa dạng hóa chứng khoán trong danh mục
đầu tư; nhằm bù đắp giữa lợi nhuận và rủi ro để có được thu nhập ổn định, hạn chế
rủi ro đến mức có thể chấp nhận được đối với từng chứng khoán cụ thể. Với việc
áp dụng chiến lược này, các nhà hoạch định thường phân bổ tài sản chủ yếu vào
các công cụ tài chính có thu nhập tương đối ổn định như trái phiếu Chính phủ,
hoặc thiết lập danh mục đầu tư theo kết cấu chỉ số. Về bản chất, đây chỉ là sự
sao chép lại một cách thụ động mức lợi nhuận của toàn thị trường và không kỳ
vọng vào loại hình chứng khoán và lĩnh vực kinh tế cụ thể nào, còn kết quả hoạt
động đầu tư thì bị lệ thuộc vào diễn biến khách quan của thị trường.
Trong những điều kiện đặc biệt,
chiến lược này phát huy được hiệu quả đầu tư rất cao. Ví dụ, trong thời kỳ
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (TTGDCK) mới triển khai hoạt động ở Việt Nam,
mặc dù các nhà đầu tư đã thực hiện chiến lược đầu tư một cách thụ động theo chỉ
số cổ phiếu với danh mục đầu tư rất đơn điệu và chỉ tập trung vào cổ phiếu.
Nhưng, do giá cả cổ phiếu liên tục tăng lên trong khoảng thời gian khá dài nên
việc áp dụng chiến lược đầu tư thụ động là hợp lý, đơn giản và hiệu quả nhất.
Các QĐT và CtyQLQ cũng có thể áp
dụng chiến lược đầu tư mang tính hỗn hợp trên cơ sở phối hợp cả hai chiến lược
nêu trên. Ví dụ, phát huy tính chủ động trong việc phân bố tài sản, thường
xuyên thay đổi cơ cấu chứng khoán trong danh mục đầu tư nhưng trong việc lựa
chọn chứng khoán thì nắm giữ các danh mục đầu tư theo chỉ số đối với từng loại
chứng khoán cụ thể. Tính chất hỗn hợp của chiến lược đầu tư cũng có thể được
thực hiện theo hướng thụ động trọng tâm. Để thực hiện chiến lược này, trọng tâm
của danh mục đầu tư là những chứng khoán được lựa chọn theo chỉ số. Bộ phận còn
lại của danh mục đầu tư được thực hiện theo phương thức chủ động.
Để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư;
việc quản trị, điều hành QĐT, CtyQLQ đầu tư phải luôn luôn hướng vào các chỉ
tiêu kinh tế cơ bản như: tổng thu nhập, tỷ lệ thu nhập, tổng chi phí, tỷ lệ chi
phí và chất lượng hoạt động của bộ máy quản trị điều hành. Đồng thời, các QĐT,
CtyQLQ đầu tư không chỉ khai thác và sử lý tốt các thông tin thị trường, mà còn
phải cung cấp thông tin một cách chính xác, kịp thời, đầy đủ về tình hình tài
chính và hoạt động QĐT, CtyQLQ đầu tư. Hội đồng quản trị phải cung cấp cho các
NĐT các báo cáo về tình hình hoạt động đầu tư, tình hình tài chính. Nếu QĐT
theo mô hình hợp đồng thì phải cung cấp cho nhà đầu tư các tài liệu báo cáo
định kỳ của CtyQLQ đầu tư, báo cáo của người thụ ủy và các báo cáo tài chính
(bao gồm: báo cáo về tài sản và công nợ, thu nhập và chi phí, sự thay đổi giá
trị tài sản ròng…).
Danh mục đầu tư thể hiện một cách
tổng thể mục tiêu, chiến lược đầu tư, việc phân bố tài sản và lựa chọn chứng
khoán không chỉ đối với các loại hình chứng khoán, ngành, lĩnh vực mà QĐT,
CtyQLQ đầu tư quan tâm; mà còn thể hiện cả mục tiêu, phạm vi hoạt động của
chúng trên thị trường tài chính thế giới. Danh mục đầu tư của các QĐT, CtyQLQ ở
các nước trên thế giới trong những năm qua đã không chỉ tập trung việc phân bố
tài sản và lựa chọn những chứng khoán ở các thị trường vốn phát triển mà còn
tranh thủ những cơ hội đầu tư vào những TTCK đang phục hồi ở những quốc gia
thực hiện việc chuyển đổi mô hình kinh tế (đặc biệt là đối với TTCK của một số
nước Đông Âu, Nga và Trung Quốc).
Tại Việt Nam, các nhà đầu tư nước
ngoài (ĐTNN) cũng đã bắt đầu quan tâm, tiến hành đầu tư, thành lập CtyQLQ ở Việt
Nam để tận dụng những cơ hội đầu tư xuất hiện trên TTCK và trong quá trình cổ
phần hóa (CPH) doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Năm 2003, lần đầu tiên ở Việt Nam,
CtyQLQ đầu tư đã được thành lập, đó là Công ty Liên doanh QLQ đầu tư chứng
khoán Việt Nam- VietFund Management (VFM). Đây là một liên doanh giữa Công ty
Dragon Capital Management và Ngân hàng Thương mại (NHTM) Cổ phần Sài Gòn Thương
Tín.
QĐT và CtyQLQ đầu tư đối với việc
chuyển đổi các Tổng công ty (TCty) nhà nước sang mô hình tập đoàn kinh tế
Việc đổi mới các TCty nhà nước
thành các tập đoàn kinh tế để thích ứng với những điều kiện của nền kinh tế thị
trường trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt, trước ngưỡng cửa của việc Việt Nam ra
nhập WTO và của quá trình hội nhập, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới đã trở
thành một trong những nhiệm vụ trong tâm của cải cách khu vực kinh tế nhà nước
ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Thực tiễn thế giới cho thấy, để
tăng cường sự chủ động về vốn và phát triển lĩnh vực đầu tư tài chính, ngoài
những “công ty con” là ngân hàng, công ty tài chính (CtyTC), các tập đoàn kinh
tế phi ngân hàng còn có CtyQLQ đầu tư và hàng loạt các QĐT chứng khoán. CtyQLQ
đầu tư (còn được gọi là CtyQLQ) và các QĐT đã và đang tạo tiền đề cho sự phát
triển hùng mạnh của hầu hết các tập đoàn kinh tế (đặc biệt là đối với các công
ty xuyên quốc gia - Trannationanl Corporations). Vì vậy, việc thành lập các QĐT
và CtyQLQ đầu tư sẽ trở thành vấn đề tất yếu để thúc đẩy sự hình thành và phát
triển các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam - đặc biệt là đối với việc
chuyển đổi và phát triển các TCty nhà nước theo mô hình tập đoàn kinh tế.
Cho đến nay tất cả các TCty nhà
nước đều chưa thành lập QĐT và CtyQLQ. Mặc dù đã có một vài TCty nhà nước thành
lập CtyTC, nhưng với mô hình và phương thức hoạt động như hiện nay, các CtyTC ở
các TCty nhà nước không thể đẩy mạnh lĩnh vực hoạt động đầu tư - kinh doanh
chứng khoán. Điều này đã và đang diễn ra đối với những CtyTC của các TCty nhà
nước có quy mô lớn nhất.
Ví dụ: Theo mô hình tổ chức hiện
nay, TCty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) có 117 đơn vị thành viên, bao
gồm: các đơn vị hạch toán phụ thuộc, các đơn vị hạch toán độc lập, các đơn vị
sự nghiệp và các công ty có vốn góp chi phối của VNPT. Trong đó, 70 đơn vị
thành viên của VNPT hoạt động theo chế độ hạch toán phụ thuộc gồm 61 Bưu điện
tỉnh, thành phố và 9 Công ty chuyên ngành. Những doanh nghiệp này chiếm trên
90% tổng vốn đầu tư phát triển hàng năm của VNPT và tạo ra gần 85% doanh thu
của VNPT.
Các đơn vị thành viên của VNPT có
liên quan mật thiết với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ, cung
ứng, tiêu thụ, dịch vụ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị trong lĩnh vực
bưu chính - viễn thông và các lĩnh vực liên quan đến việc phát triển ngành Bưu
chính - Viễn thông. Năm 2003 tổng doanh thu của VNPT đạt 24.997 tỷ đồng. Trong
đó, doanh thu từ dịch vụ bưu chính - viễn thông chiếm 91,3%, nộp ngân sách nhà
nước 4.145 tỷ đồng; nguồn vốn chủ sở hữu của VNPT đã lên tới 29.608 tỷ đồng. Để
có được những thành tựu này, ngay từ khi thực hiện “Quy hoạch phát triển bưu
chính viễn thông giai đoạn 1996-2000” VNPT đã vận dụng sáng tạo và triệt để chủ
trương đa dạng hóa các nguồn vốn: thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua hình
thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC); liên doanh góp vốn với các đối tác nước
ngoài, khai thác nguồn vốn hỗ trợ phát triển (ODA) và các nguồn vốn tín dụng từ
các NHTM.
Đồng thời, để khắc phục thói quen trông chờ
vào các nguồn vốn từ TCty và để khai thác những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của
các đơn vị thành viên, khai thác các nguồn vốn trên thị trường tài chính, thực
hiện việc đầu tư tài chính, năm 1998 VNPT đã thành lập CtyTC Bưu điện (PTF) để
kinh doanh tài chính thông qua các hoạt động như: huy động và cho vay vốn; phát
hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá; kinh
doanh dịch vụ ngân quỹ…
Mặc dù PTF đã tích cực hoạt động
trong lĩnh vực tài chính nhưng cho đến nay hoạt động chủ yếu của PTF là thực
hiện cho vay theo ủy thác, cho vay trực tiếp, cho vay đồng tài trợ còn đối với
hoạt động đầu tư không đáng kể. Năm 2003, quy mô hoạt động đầu tư - kinh doanh
chứng khoán và góp vốn liên doanh mua cổ phần mới chỉ đạt hơn 3 tỷ 107 triệu
đồng. Thực trạng này cũng đang diễn ra tại các CtyTC hiện có ở các TCty nhà
nước (CtyTC Dệt may, CtyTC Cao su, CtyTC Tàu thuỷ, CtyTC Dầu khí). Trong khi
đó, tháng 8/2004 QĐT Chứng khoán Việt Nam (VF1) khi tổ chức khai trương đã huy
động huy động đủ 300 tỷ đồng vốn điều lệ được phép phát hành. Như vậy có thể
khẳng định rằng, một trong những nguyên nhân chủ yếu là ở chỗ: các CtyTC không
phải là doanh nghiệp chuyên hoạt động kinh doanh các sản phẩm tài chính dưới
hình thức chứng khoán. Vì vậy, để có thể bắt nhịp và hoà nhập vào thị trường
tài chính, đồng thời, để thúc đẩy sự chuyển đổi từ mô hình TCty sang mô hình
tập đoàn dưới dạng “công ty mẹ-công ty con” việc thành lập QĐT chứng khoán và
CtyQLQ là phù hợp với xu hướng phát triển và những tiềm năng hiện có của các
TCty nhà nước.
Kết luận
QĐT và CtyQLQ đầu tư là tất yếu
khách quan và là sản phẩm trực tiếp của quá trình phát triển của phân công lao
động xã hội đối với thị trường tài chính. Hoạt động của QĐT, CtyQLQ đầu tư
không chỉ trong phạm vi quốc gia, mà còn phát triển trên phạm vi quốc tế - một
trong những nhân tố của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa thị trường tài chính
hiện đại. Vì vậy, sự ra đời và phát triển của các QĐT, CtyQLQ ở Việt Nam là
sản phẩm tất yếu của cải cách từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang mô hình
nền kinh tế thị trường. Căn cứ vào phương thức hoạt động, các QĐT có thể được
thành lập theo mô hình “đóng” hoặc “mở”, dưới dạng “hợp đồng” hay “công ty”.
Tuy nhiên, do những đặc điểm và các nhân tố của việc thiết lập quỹ được hình
thành từng bước, cho nên, ở giai đoạn đầu phải thành lập các QĐT dưới dạng “hợp
đồng” và tổ chức - quản lý theo mô hình “đóng”. Đồng thời, việc thành lập
CtyQLQ có thể bắt đầu từ mô hình công ty tư vấn đầu tư chứng khoán.
Để thúc đẩy quá trình hình thành
và phát triển của các TCty nhà nước theo mô hình tập đoàn kinh tế, có thể, mỗi
TCty nhà nước sẽ thành lập thí điểm một vài QĐT và chuẩn bị điều kiện để tiến
tới việc thành lập CtyQLQ; các TCty nhà nước thành các tập đoàn kinh tế, các
TCty nhà nước cần đẩy nhanh tiến độ CPH theo hướng chuyển đổi sang mô hình tập
đoàn kinh tế.
Để đảm bảo tính chuyên nghiệp
trong việc quản trị các danh mục đầu tư và nâng cao hiệu quả phần vốn đầu tư
của các TCty tại công ty cổ phần (CtyCP) - (các doanh nghiệp trong ngành), các
TCty nhà nước có thể giao cho các QĐT hoặc CtyQLQ thực hiện việc quản trị kinh
doanh và quản lý tập trung vốn cổ phần của TCty tại các CtyCP.
Các loại hình quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư là một định chế tài
chính trung gian phi ngân hàng thu hút tiền nhàn rỗi từ các nguồn khác nhau để
đầu tư vào các cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ, hay các loại tài sản khác.
Tất cả các khoản đầu tư này đều
được quản lý chuyên nghiệp, chặt chẽ bởi công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám
sát và cơ quan thẩm quyền khác.
Tại sao nhà đầu tư sử dụng quỹ
đầu tư?
Nhà đầu tư cá nhân hay pháp nhân
thường quyết định đầu tư thông qua quỹ bởi 05 yếu tố:
o Giảm thiểu rủi ro nhờ đa dạng
hóa danh mục đầu tư
o Tiết kiệm chi phí nhưng vẫn đạt
các yêu cầu về lợi nhuận.
o Được quản lý chuyên nghiệp.
o Giám sát chặt chẽ bởi các cơ
quan thẩm quyền.
o Tính năng động của quỹ đầu tư.
Mỗi nhà đầu tư tham gia đầu tư
vào quỹ sẽ sở hữu một phần trong tổng danh mục đầu tư của quỹ. Việc nắm giữ này
được thể hiện thông qua việc sở hữu các chứng chỉ quỹ đầu tư.
Các loại hình quỹ đầu tư
Hiện nay, trên thế giới có rất
nhiều loại hình quỹ đầu tư căn cứ theo các tiêu chí phân loại khác nhau.
a. Căn cứ vào nguồn vốn huy động:
+ Quỹ đầu tư tập thể (quỹ công
chúng)
Là quỹ huy động vốn bằng cách
phát hành rộng rãi ra công chúng. Nhà đầu tư có thể là cá nhân hay pháp nhân
nhưng đa phần là các nhà đầu tư riêng lẻ. Quỹ công chúng cung cấp cho các nhà
đầu tư nhỏ phương tiện đầu tư đảm bảo đa dạng hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro và
chi phí đầu tư thấp với hiệu quả cao do tính chuyên nghiệp của đầu tư mang lại.
+ Quỹ đầu tư cá nhân (Quỹ thành
viên)
Quỹ này huy động vốn bằng phương
thức phát hành riêng lẻ cho một nhóm nhỏ các nhà đầu tư, có thể được lựa chọn
trước, là các cá nhân hay các định chế tài chính hoặc các tập đoàn kinh tế lớn,
do vậy tính thanh khoản của quỹ này sẽ thấp hơn quỹ công chúng. Các nhà đầu tư
vào các quỹ tư nhân thường với lượng vốn lớn, và đổi lại họ có thể tham gia vào
trong việc kiểm soát đầu tư của quỹ.
b. Căn cứ vào cấu trúc vận động
vốn:
+ Quỹ đóng
Đây là hình thức quỹ phát hành
chứng chỉ quỹ một lần duy nhất khi tiến hành huy động vốn cho quỹ và quỹ không
thực hiện việc mua lại cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư khi nhà đầu tư có nhu cầu bán
lại. Nhằm tạo tính thanh khoản cho loại quỹ này, sau khi kết thúc việc huy động
vốn (hay đóng quỹ), các chứng chỉ quỹ sẽ được niêm yết trên thị trường chứng
khoán. Các nhà đầu tư có thể mua hoặc bán để thu hồi vốn cổ phiếu hoặc chứng
chỉ đầu tư của mình thông qua thị trường thứ cấp. Tổng vốn huy động của quỹ cố
định và không biến đổi trong suốt thời gian quỹ hoạt động. Hình thức quỹ đóng
này mới được áp dụng tại Việt Nam,
đó là Quỹ đầu tư VF1 do công ty VFM huy động vốn và quản lý.
+ Quỹ mở
Khác với quỹ đóng, tổng vốn cũa
quỹ mở biến động theo từng ngày giao dịch do tính chất đặc thù của nó là nhà
đầu tư được quyền bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho quỹ, và quỹ phải mua lại các
chứng chỉ theo giá trị thuần vào thời điểm giao dịch. Đối với hình thức quỹ
này, các giao dịch mua bán chứng chỉ quỹ được thực hiện trực tiếp với công ty
quản lý quỹ và các chứng chỉ quỹ không được niêm yết trên thị trường chứng
khoán. Do việc đòi hỏi tính thanh khoản cao, hình thức quỹ mở này mới chỉ tồn
tại ở các nước có nền kinh tế và thị trường chứng khoán phát triển như Châu Âu,
Mỹ, Canada…
và chưa có mặt tại Việt Nam.
c. Căn cứ vào cơ cấu tổ chức và
hoạt động của quỹ:
+ Quỹ đầu tư dạng công ty
Trong mô hình này, quỹ đầu tư là
một pháp nhân, tức là một công ty được hình thành theo quy định của pháp luật
từng nước. Cơ quan điều hành cao nhất của quỹ là hội đồng quản trị do các cổ
đông (nhà đầu tư) bầu ra, có nhiệm vụ chính là quản lý toàn bộ hoạt động của
quỹ, lựa chọn công ty quản lý quỹ và giám sát hoạt động đầu tư của công ty quản
lý quỹ và có quyền thay đổi công ty quản lý quỹ. Trong mô hình này, công ty
quản lý quỹ hoạt động như một nhà tư vấn đầu tư, chịu trách nhiệm tiến hành
phân tích đầu tư, quản lý danh mục đầu tư và thực hiện các công việc quản trị
kinh doanh khác. Mô hình này chưa xuất hiện ở Việt Nam bởi theo quy định của UBCKNN,
quỹ đầu tư không có tư cách pháp nhân.
+ Quỹ đầu tư dạng hợp đồng
Đây là mô hình quỹ tín thác đầu
tư. Khác với mô hình quỹ đầu tư dạng công ty, mô hình này quỹ đầu tư không phải
là pháp nhân. Công ty quản lý quỹ đứng ra thành lập quỹ, tiến hành việc huy
động vốn, thực hiện việc đầu tư theo những mục tiêu đã đề ra trong điều lệ quỹ.
Bên cạnh đó, ngân hàng giám sát có vai trò bảo quản vốn và các tài sản của quỹ,
quan hệ giữa công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát được thể hiện bằng hợp
đồng giám sát trong đó quy định quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong việc
thực hiện và giám sát việc đầu tư để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Nhà
đầu tư là những người góp vốn vào quỹ (nhưng không phải là cổ đông như mô hình
quỹ đầu tư dạng công ty) và ủy thác việc đầu tư cho công ty quản lý quỹ để bảo
đảm khả năng sinh lợi cao nhất từ khoản vốn đóng góp của họ.
Chức năng hoạt động của Công ty quản lý quỹ
Theo khái niệm về công ty quản lý
quỹ đầu tư (Fund Management) tại thị trường chứng khoán Mỹ, công ty quản lý quỹ
là công ty chuyên trách thực hiện việc quản lý các quỹ đầu tư. Các quỹ đầu tư
được tổ chức dưới dạng một công ty, phát hành cổ phần. Công ty đầu tư sử dụng
nhà tư vấn đầu tư, hay người quản lý đầu tư đề quyết định loại chứng khoán nào
sẽ đưa vào danh mục đầu tư của quỹ. Người quản lý quỹ đuợc toàn quyền quản lý
danh mục đầu tư, mua bán chứng khóan phù hợp với các mục tiêu đầu tư của quỹ.
Công ty quản lý quỹ được cấu trúc dưới hai dạng: quản lý quỹ đầu tư quỹ dạng
đóng và quỹ dạng mở.
Ở Việt Nam, theo Nghị định 144/2003/NĐ-CP
ban hành ngày 28/11/2003 về chứng khoán và thị trường chứng khoán, thì công ty
quản lý quỹ thực hiện việc quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Quỹ đầu tư chứng
khoán có thể ở dạng quỹ công chúng hoặc quỹ thành viên, và là dạng đóng.
Chức năng hoạt động và các sản
phẩm của công ty quản lý quỹ
Thực chất về hoạt động của công
ty quản lý quỹ là thực hiện chức năng về quản lý vốn tài sản thông qua việc đầu
tư theo danh mục đầu tư hiệu quả nhất làm gia tăng giá trị của quỹ đầu tư.
a. Quản lý quỹ đầu tư (Asset
management)
- Huy động và quản lý vốn và tài
sản
- Tập trung đầu tư theo danh mục
đầu tư
- Quản lý đầu tư chuyên nghiệp
Các quỹ đầu tư được quản lý bởi
các chuyên gia có kỹ năng và giàu kinh nghiệm người mà được lựa chọn định kỳ
căn cứ vào tổng lợi nhuận họ làm ra. Những chuyên gia không tạo ra lợi nhuận sẽ
bị thay thế. Một trong những nhân tố quan trọng trong việc chọn lựa quỹ đầu tư
tốt là quỹ đó phải được quản lý tốt nhất.
b. Tư vấn đầu tư và tư vấn tài
chính
- Thực hiện việc tư vấn đầu tư và
tư vấn về quản trị cho các khách hàng
- Hỗ trợ khách hàng tối ưu hóa
các khoản đầu tư thông qua các công cụ tài chính
- Tối ưu hóa các nguồn vốn cho
các nhà đầu tư
c. Nghiên cứu
Thông qua việc phân tích đánh giá
về thị trường, phân tích giá trị tài chính và giá trị đầu tư và hỗ trợ cho các
hoạt động quản lý đầu tư và các tư vấn như đã nêu trên.
Cơ chế giám sát của quỹ, công ty
quản lý quỹ và các cơ quan chức năng
a. Cơ quan quản lý chủ quan của
công ty quản lý quỹ là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), Bộ Tài Chính và
Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam giám sát toàn bộ các hoạt động của công ty quản lý
quỹ, các quỹ đầu tư và các ngân hàng giám sát về mặt vĩ mô.
b. Ngân hàng giám sát thực hiện
việc bảo quản, lưu ký tài sản của quỹ đầu tư chứng khoán và giám sát công ty
quản lý quỹ nhằm bảo vệ lợi ích của người đầu tư.
c. Công ty quản lý quỹ thực hiện
việc quản lý quỹ việc đầu tư theo danh mục đầu tư được nêu trong cáo bạch của
quỹ.
d. Công ty kiểm toán thực hiện
việc kiểm tra, đánh giá khách quan và chính xác tình hình hoạt động của quỹ đầu
tư, bảo đảm sự minh bạch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét